CHAP 105:
LAI RAI CHUYỆN Ở MONGKOL BOREI.
Tạm thời chia tay Pailin, Poipet tôi xuống Mongkol hỗ trợ anh Ba L.
Chia tay rừng rú mìn bẫy với đạn bắn tỉa ở Pailin và Poipet tôi xuống chỗ chú Tư N và anh Ba L, đang ở rừng mà được về phố tôi vui đêm trước khi đi ngủ không được, thương chú Tư S cùng anh em ở lại, mừng là sắp được về sì phố cờ hoa tưng bừng.
Sáng sớm tôi cùng thằng Th ba chân bốn cẳng ra vẫy xe, những cái xe đò bụi mù đất đỏ bẩn thỉu người ngợm hàng hoá lèn như cá mòi vù vù chạy qua, tài xế chả thèm ngó ngàng tới hai thằng tôi cầu bơ cầu bất đứng vẫy xe tới sái cả tay chả cái nào dừng, lại phải vào nhờ Thum Min, lục thum Min khệnh khạng trời nóng chết ngốt sơ vin đóng thùng cốt để khoe cây súng ngắn đeo xệ trước bụng chân đi đôi giày sĩ quan cô sa ghin, đổi ba con vịt xiêm lấy đôi giày của anh L, chân thum Min toè như cái xẻng cố ních vào đôi giày khiến anh em tôi cười lăn với nhau.
Thum Min ra giữa đường đứng dạng chân như cao bồi Mỹ mắt gườm gườm nhìn chiếc xe đò chạy tới, tài xế vội phanh nhấc cả đít khi nhận ra thum Min, Ê, cho tao gửi hai “cán bộ cấp cao” đi công tác bay!
Lơ xe cuống quýt đẩy mấy bà buôn chuyến gọn vào cho chúng tôi đứng, đứng chứ làm gì có ghế mà ngồi, xe hôi mù thối um đủ thứ mùi, đoạn đường có hơn ba chục cây mà xe ì ạch chạy tới hơn hai tiếng hàng hoá chất tới mức không còn chỗ chất nữa.
Tới Sisophon anh Ba L đỗ xe chờ sẵn, ôi trời..xe khách đây sao? Chúng tôi tá hoả khi nhìn thấy cái gọi là xe khách mà anh Ba đang đỗ đợi chúng tôi.
Một chiếc xe đốt đời Thành cát tư hãn bẩn nhèm, già nua tuổi tác, lọm xọm còm cõi như một ông cụ già bị hen lại nghiện rượu đang đỗ cạnh bãi đất khai mù, ruồi nhặng và lá bánh la liệt, phía sau xe thằng Thịnh béo như chó thiến hàng cơm, mặt mũi chân tay đen nhẻm đang hì hục cời cời cái lò than, bụi tro bay mù mịt, thấy anh em tôi nó nhe răng ra cười..
Trên xe đủ thứ hầm bà lằng hổ lốn, từ mắm muối gạo thóc, dầu hoả tới gà lợn, con nít đen nhẻm cởi truồng tồng ngồng thản nhiên đái ỉa ngay bậc lên xuống.
Thảo nào tôi thấy khi chú Tư S nói cho hai thằng bay xuống phố đi xe đò chở khách nhé, thấy chúng tôi reo lên sung sướng hỏi chú Tư, xe ngon không chú? Chú tư mím môi cố không cười quay đi nói, má..xe đò đời mới của Pháp mà ko ngon sao bay!!
Thôi kệ, dù sao ở sì phố lái “xe hơi” còn sướng chán vạn chui rúc trên rừng..
Anh Ba L quấn sà rông cởi trần trùng trục đầu đội cái nón tào phớ của lính cam, cổ vắt cái khăn mặt như cái giẻ lau đen xì thấy gớm giục chúng tôi lên xe đi các quý ông.
Cuộc đời lơ xe, tài xế của tôi bắt đầu.
Chúng tôi chia nhau cử con rôn roi chạy than đó, ngày chẵn anh Ba với thằng Thắng chạy, anh Ba lái, Thắng lơ. Ngày lẻ tôi với thằng Thịnh chạy, ban đầu nó lái tôi lơ, tôi thì lúc đó ú ớ tiếng Cam chưa sõi chả biết đằng nào mà tính tiền, nó nói thôi anh lái đi em lơ cho.
Thế là tôi chỉnh chện ngồi vào sau tay lái thứ gọi là “xe hơi” đó, cái xe già nua gần như tất cả mọi thứ đều kêu trừ cái kèn, lọc xọc chạy trên con đường bụi mù mịt xóc nổ đom đóm mắt, ngày ngày hai quệt theo đường 5 từ Mongkol lên Sisophon.
Dậy từ mờ sáng lóp ngóp lên đường, ăn hủ tíu mỗi thằng làm cốc tướng rượu sara xong tưng tưng nổ máy, trưa ăn cơm lại khề khà bia Thái với nhái nướng, bia với nhái vũ nữ chân dài lúc đó là món đặc trưng của các quán nhậu Cam.
Nhái mổ bụng lột da, phơi khô quấn lá chanh hoặc lá bưởi nướng chấm muối chanh ớt, hoặc mắm bò hóc, làm ngụm bia nữa thế là quắc cần câu, ngày đó thì làm gì có thổi cồn như giờ nên các bác tài thoải mái say lướt khướt lái xe 7-80 cái răng một giờ, võng lượn thoải mái mà chả lo bị phu lít lụm.
Đi xe khách cũng vui lắm, tha hồ tán gái, nổ như bom Long bình, tha hồ chém gió bay cả nhẫn, xe khách lúc đó nhiều lắm toàn xe cà rịch cà ẹt vừa chạy vừa sửa, của nợ rôn roi của chúng tôi cũng vậy, hư suốt chúng tôi ngày nào cũng khi đi tươm tất khi về tả tơi với nó, nóng như cái lò hôi xì và bẩn thỉu, vừa chạy khật khừ vừa rơi những cục than còn đang cháy ra đường, khách lẫn heo gà, vịt.. ngồi lộn tùng phèo với nhau, lợn, gà, vịt ị xả láng trên nền xe, con nít cũng vậy..mỗi khi khách xuống là cả xe như một bãi rác, lúc đó cũng có giang hồ du đãng đứng bến bảo kê xếp khách, nhưng các loại đầu gấu đầu mèo đều né cái siêu xe của chúng tôi vì từ lơ đến tài thằng nào cũng to cao lầm lì, mặt vàng bệch sốt rét, tóc tai dài cợp, đít đeo lưỡi lê M16 hoặc lòng thòng cây mác Mỹ dài thượt, chưa kể lúc đó chú Tư N trong vai chủ xe, một ông già nát rượu, gàn dở và hung hăng kiểu coi trời bằng hạt tiêu.
Lúc đó cứ chiều là chúng tôi đưa xe về ghé bến sông múc nước rửa qua xe, rồi chạy vô tút trong chùa Chanh đỗ nhà cô Ba X. nghỉ ngơi.
Từ chợ Mongkol chạy xuôi theo mé sông Mongkol tới ngã ba rẽ trái qua cầu Sisovat bên phải là chùa Ram, tới ngã tư nữa chạy thẳng cũng được, quẹo phải theo bờ sông cũng được nhưng xa hơn chút, chừng vài ba cây là tới chùa Chanh, hai ngôi chùa này đều ngay bên mé sông Mongkol, lúc chúng tôi ở đó thì khu phố chợ khá đông đúc rồi, dân ở đó giàu lắm nhưng phía chùa Ram sang chùa Chanh thì vẫn vắng, hai bên đường toàn lùm bụi rậm rịt và cánh đồng kênh mương thẳng tắp nhưng bỏ hoang không thấy ai trồng cấy gì cả, khi ở đó tôi gặp vài mẩu chuyện lạ xin kể bà con nghe chơi.
Ngôi chùa Chanh lúc đó cũng bị hư hại nhiều do chiến tranh, mới có một vài ông sư quay lại chùa, vì thời Polpot thì chúng lôi cổ tất cả sư sãi ra khỏi chùa, tất cả phải đi cuốc đất hết không có kinh kệ chuông mõ gì cả, lơ mơ là ăn đạn liền, xung quanh chùa rất vắng vẻ, chúng tôi ở chỗ thím Ba X. chỗ đó ngày đấy là một khu đất hoang đối diện trường học bây giờ, cách nhau một con đường đất nhỏ phía sau là rừng cây rồi tới cánh đồng rộng lớn, cạnh chùa là sông Mongkol chảy xuôi xuống hướng Kra om.
Chỗ bãi đất chúng tôi ở có mấy dãy nhà hoang bỏ không, đó là nơi ở cũ của những người dân bị lính pot lùa ra làm ruộng vườn, có mấy cái ao khá to, một cái to và rất sâu lúc nước cạn vẫn nhìn thấy những khúc xương người vàng khè dưới đó, cùng với những hũ tro cốt cũ và những bức tượng Phật.
Ngày trước thì dân hay đem hũ tro cốt lên chùa Chanh để, sau lính pot bắt họ đem những hũ cốt và những bức tượng trong chùa ném hết xuống cái ao đó và cả những người dân lao động khi chết cũng bị quăng xác xuống đó.
Chúng tôi ở trong căn nhà xây lợp tôn, bên trên có một gác lửng đối diện là dãy nhà hoang gần như đêm nào cũng nghe tiếng loảng xoảng, lách cách lục cục vọng sang, cứ như vẫn có người đang ở, vài lần tôi và Thắng sang đó ban đêm soi bắt tắc kè, ban đêm gió ù ù lùa qua những khung cửa trống hoác, cảm giác lạnh lẽo tới rùng mình.
Một lần đêm sửa xe về muộn anh Ba lúc đó đi xe cùng anh Sơn, chúng tôi lúc đó đang ở Poipet, khi đỗ xe ở bãi đất dưới gốc cây xoài thì cả hai anh đều nhìn thấy rất nhiều những bóng người đứng ở cửa dãy nhà hoang bên đó như đang nhìn, hai anh tưởng có dân đâu về ở liền xách đèn pin đi qua tính hỏi thăm, đi tới sát cửa thì hai anh ngơ ngác dãy nhà hoang vẫn tối tăm hoang lạnh chứ chẳng hề có ai.
Còn tôi thì gặp hai lần, đều là một thằng bé con.
Lần đầu là hôm đó tôi nghỉ chạy ở nhà, thằng Thịnh và chú Tư đi câu cá chỉ có mình tôi ở nhà, lúc đó mới chỉ chừng 5 giờ chiều, vẫn còn nắng và rất nóng, tôi nấu cơm xong bê đồ ăn lên cái bàn giữa nhà, tính lấy cái quần tà lỏn đi tắm, ngước nhìn lên gác xép thì tôi giật mình, có một thằng bé con đứng trên đó, nó đứng im nghiêng nghiêng đầu như nhìn tôi, hai con mắt nó rất đen tôi không thể nhìn lầm được, tôi cũng đứng im nhìn lại nó mà trong đầu không hề nghĩ nó là gì cả, mà lúc đó tôi chỉ nghĩ nó là con cháu nhà ai đó xung quanh qua chơi..nhưng sau đó thì người tôi bỗng nổi gai ốc và rùng mình liên tục, tôi vội lùi ra cửa để nhìn lên gác cho rõ hơn, lạ là khi tôi lùi ra cửa thì nó lại như cố lùi vào phía trong, thấy vậy tôi chạy thẳng lên cái thang sắt để lên gác xem nó là ai thì lên hết thang cả căn gác rộng chẳng có bóng người nào cả.
Lúc đó tôi khá hoang mang, mồ hôi toát ra, tôi cứ đứng nhìn quanh quẩn..dưới nền thì chỉ có mấy cái ba lô lép kẹp, một hai cái mền với cái dây vắt ít đồ quần áo, chẳng có gì cả, vậy thằng bé đó đâu?
Tôi xuống thang ngồi vào bàn nghĩ vẩn vơ và thỉnh thoảng lại lén ngước lên gác nhìn, nhưng không thấy gì nữa.
Sau đó tôi có kể lại với anh Ba và Thịnh, thì thằng Thịnh có nói một hai lần ngủ đêm nó có thấy thằng bé này leo trèo từ dưới lên cái thang xong lại tụt xuống thang rồi lại leo lên như vậy nhiều lần trong đêm, do chú cháu tôi nằm ở phía dưới sát cửa, hai bên nhà có hai dãy cửa sổ rất dài nên buổi đêm trong nhà vẫn thấy được mọi thứ.
Thịnh nó nói với tôi hình như trước nó chết ở đây hay sao đó anh ạ.
Lần thứ hai tôi nhìn thấy nó thì nó làm tôi hết cả hồn vì giật mình.
Lần đó là cái sàn xe mọt gỉ quá rồi, đi trời mưa nước bắn hết lên, chú Tư bảo anh em tôi nghỉ sửa xe, chúng tôi đánh xe về bãi, anh em loay hoay cạy miếng sắt sàn xe lên, tôi vác chiếc xà beng vào dãy nhà hoang trước mặt tính cạy tấm tôn nào dày dày tý để lót nền xe.
Dãy nhà đó rất rộng nhưng đã bị cháy một phần, còn lại một phần chừng hơn trăm mét vuông là còn nóc, trong đó lại có những gian nhỏ chia ra làm ba bốn gian gì đó, tuy chia ra từng gian nhưng tường chỉ cao chừng hơn mét, có chỗ ốp những tấm tôn dày thay vách tường gỗ, phía trên là cửa sổ với hàng chấn song trông như nhà tù, đứng một chỗ có thể nhìn được hết các gian, chắc bọn pot làm vậy để dễ kiểm soát người dân bên trong.
Tôi chọn được một tấm tôn và bắt đầu lấy cây xà beng để nạy ra, lúc đó là buổi trưa nắng và nóng, nhưng bỗng nhiên tôi có cảm giác ớn lạnh rùng mình, theo thói quen tôi vội ngồi xuống dừng tay nhìn ra sau lưng, úi trời ơi thật..phía ngăn giữa, cách cái ngăn tôi đang cạy tôn một ngăn, có một thằng bé đang đứng nhìn tôi chằm chằm, lần này thì tôi đoán nó là cái gì rồi, tôi vẫn ngồi im nheo mắt nhìn lại nó, bỗng nhiên nó rụt cái cổ lại và nhe răng trợn mắt lên.., nóng đầu tôi nói, ơ đm thằng nhóc kia mày doạ tao à? Rồi quờ tay rút cây lê đeo sau mông nhằm thẳng nó tôi phi một phát, cây lê bay vút qua hàng song sắt trước mặt tôi nhưng lại vướng vào song sắt bên đó và rơi xuống đất, tôi xách cây xà beng lao sang thì nó không còn ở đó nữa, như biến vào không khí luôn.
Tôi chạy sang nhặt cây lê lên và chạy ra ngoài, đúng lúc anh Ba L mò vào, thấy tôi hớt hải chạy trong ra anh Ba hỏi tôi cái gì vậy? Tôi nói, em vừa gặp ma xong, đm thằng nhóc con nó nhe răng doạ em, anh Ba cười khì khì bảo tôi nhà này nhiều lắm, tao chưa bị doạ nhưng chú Tư bị rồi, ổng qua ị bậy bị nó doạ cho xách quần chạy đấy…
Hai anh em tôi quay vào cạy tiếp tấm tôn, tôi vừa làm vừa liếc mắt nhìn ngang nhìn dọc nhưng không hề thấy nó lần nào nữa.
Một đôi lần sáng sớm tôi và Thắng dậy đi xe, từ cửa nhà bước ra tôi thấy loáng thoáng có những bóng người như đang leo lên leo xuống phía sau xe chỗ cái thùng than, nhưng tới gần thì lại không thấy ai, tôi có nói với thằng Thắng tao vừa thấy có bóng người sau xe đấy, liệu có bị gài lựu đạn không, Thắng nó chỉ tỉnh bơ bảo; Ui kệ mẹ chúng nó, em thấy suốt mà, có lần nó còn ngồi trên xe mình ra tận cầu Sisovat mà anh, chắc nó đi nhờ mình đấy..
Nghe nó nói mà tôi hoang mang, ngồi lái mà mắt cứ liếc gương giữa liên tục, nhưng chẳng thấy gì cả, mà lạ là cứ hôm nào sáng sớm dậy xúc chén cơm ra để ở cửa sau xe là y rằng hôm đó khách đông đuổi không hết.